Ngày xưa, có một chàng trai trẻ tuổi chưa có vợ, sống bằng nghề làm ruộng. Vào một ngày nọ, anh xách búa lên rừng đốn củi. Trong khi đang lúi húi chặt cây, anh trông thấy một con quạ tha một con chim sẻ tới đậu trên một phiến đá ở gần chỗ mình đang làm việc. Nhìn thấy thế, anh bỗng động lòng thương con chim bé bỏng sắp sửa lọt vào miệng loài ác điểu. Anh bèn nhặt hòn đá ném con quạ. Quạ giật mình bỏ mồi vỗ cánh bay lên. Tức mình vì hỏng ăn, quạ chửi rủa om sòm. Anh nhặt đá ném thêm và mắng:
– Đồ chim dữ, hãy cút ngay!
Quạ hậm hực bay đi, miệng còn đe dọa sẽ báo thù.
Anh chàng chạy lại nhặt con chim sẻ đang thoi thóp, cố tìm cách ủ cho nó sống lại. Quả nhiên, chỉ chừng một lát sau, con chim sẻ đã hồi tỉnh và bay được. Nó cảm ơn anh và bảo anh ngồi chờ đấy, để nó đưa biếu một vật. Một lát sau, con chim đã bay trở lại, miệng ngậm một cái lọ bé xíu, đặt xuống bên cạnh và nói:
– Đây là lọ nước thần, có phép làm cho người già thì trẻ lại, vật nhỏ thì lớn thêm, trần gian không ai có.
Nói rồi nó vỗ cánh bay đi. Anh ngồi lại tần ngần mở nút ra xem, thì thấy đầy một lọ nước, mùi thơm ngạt ngào. Anh nghĩ bụng:
– Những thứ này chỉ để cho các bà quan làm đỏm, có đâu để hạng chúng ta dùng.
Rồi anh nút lọ lại cẩn thận, khi gánh củi về, treo lọ lên kèo nhà. Và rồi thời gian trôi qua, vì bận công việc làm ăn, anh cũng quên đi, không nghĩ tới cái lọ ấy nữa.
Ít năm sau đó, chật vật mãi anh chàng mới cưới được vợ. Vợ anh cũng con nhà nông, quanh năm chân lấm tay bùn, nên đen đủi, xấu xí. Nhưng được cái, hai vợ chồng thương yêu nhau rất mực.
Một hôm, chồng đi cày vắng, vợ ở nhà quét dọn khắp nơi. Thấy một cái lọ con treo trên kèo nhà, chị bèn bắc ghế lấy xuống, rồi mở nút ra xem. Khi ngửi thấy mùi thơm, chị ta thầm nghĩ đây là dầu thơm gội đầu. Lát sau, chị nấu nước tắm gội, rồi tiện tay đổ lọ nước ra, bôi khắp tóc tai mình mẩy.
Không ngờ sau khi bôi xong, chị ta tự nhiên trở nên xinh đẹp, trắng trẻo, nhan sắc mỹ miều ít ai sánh kịp. Nước thần trôi xuống mấy luống hành bên cạnh giếng, khiến cho những cây hành cũng tự nhiên lớn phổng lên một cách lạ thường: củ to như bình vôi, dọc dài bằng đòn gánh.
Khi người chồng đi cày về, nhìn mặt vợ thì ngẩn cả người, cứ tưởng là tiên sa xuống cõi trần. Nếu không có tiếng nói thì cơ hồ anh không nhận ra là vợ mình nữa. Nghe vợ nhắc đến lọ nước thơm, anh mới sực nhớ tới chuyện báo đền của con chim sẻ ba năm về trước. Nỗi mừng biết lấy chi cân, anh ngắm vợ mãi không chán mắt, rồi kể lại câu chuyện lọ nước thần mà con chim đã tặng cho vợ nghe.
Từ đấy, anh cứ quấn quýt lấy vợ không rời. Công việc đồng áng vì thế cũng mười phần bê trễ. Nhưng cứ ở nhà mãi thì đói mất nên anh đành phải đi làm. Để khỏi nhớ, anh thuê thợ vẽ hình vợ. Mỗi khi ra đồng làm việc, anh lại treo bức tranh ở bờ ruộng để nhìn cho thỏa.
Một hôm anh đang cày ruộng, bức tranh được treo lên một cái cọc cắm ở trên bờ. Vừa cày được mươi luống, tự nhiên con quạ năm xưa ở đâu sà xuống, quắp lấy bức tranh mang đi. Anh chàng ở bên kia bờ thấy vậy bèn hò hét đuổi theo nhưng không kịp nữa.
Quạ đã cất cánh bay cao và bay đi rất xa, chỉ một loáng đã mất hút. Báo thù việc anh ném đá giành mồi của nó ngày xưa, quạ mang bức tranh vào đến tận kinh đô, thả xuống ở sân rồng.
Bọn lính thị vệ thấy sự lạ lùng, bèn nhặt lên đem trình vua. Cầm lấy bức tranh vẽ, vua ngắm nghía mãi không chán mắt, bụng bảo dạ:
– Trong ba cung sáu viện của ta đã có nhiều người đẹp, nhưng chưa có người nào đẹp bằng người đàn bà trong bức tranh này. Hẳn là trời sai con quạ đến mách cho ta đây!
Lập tức vua ra lệnh cho một quan đại thần và một trăm thị vệ phải tìm cho được người đàn bà như đã vẽ trong tranh mang về. Quan đại thần cho người về các địa phương sục sạo khắp hang cùng ngõ hẻm. Để việc tìm tòi có hiệu quả, chúng bày ra trò mở hội ở các vùng chúng đến để cho mọi người đổ về xem. Mỗi lần thấy dân tập hợp đông đúc, chúng đưa bức tranh ra giả vờ nói là tình cờ bắt được, người nào mất thì đến mà nhận.
Một hôm, chúng tới vùng quê hai vợ chồng anh chàng có lọ nước thần, và cũng bày trò mở hội ba ngày ba đêm. Quả nhiên anh chàng sa vào mưu gian. Khi nhìn thấy bức tranh, anh không đắn đo gì cả, lật đật bước tới để nhận. Nhưng anh không ngờ bọn lính chộp lấy anh như chộp con mồi. Chúng theo anh về nhà và tìm thấy ngay người đàn bà trong tranh. Mừng quá, chúng vội đưa kiệu rước nàng về kinh đô, mặc kệ cho người chồng vật mình than khóc.
Sau khi bị bắt vào cung, người đàn bà không cười, không nói, áo đẹp không mặc, đầu không chải và không cho một ai đến gần. Đem được người đẹp về cung, nhà vua hết sức mừng rỡ, nhưng cũng hết sức buồn phiền, vì mọi thứ dỗ dành, dọa nạt đều không thể làm cho người ngọc nở một nụ cười hoặc nói lên một tiếng.
Vua bèn hạ lệnh, cho rao trong dân chúng, hễ ai có cách gì làm cho nàng cười nói lên được, thì sẽ ban thưởng cho quan cao lộc hậu. Nghe tin này, có nhiều người, từ những vai hề nổi tiếng, những ông trạng cười cho đến các bậc lương y, các pháp sư, phù thủy, v.v… đua nhau đổ về kinh, hy vọng dùng tài phép của mình làm cho người đàn bà xinh đẹp ấy phải buột miệng nói cười để mong ân thưởng. Nhưng cho dù họ có cố gắng bao nhiêu cách đi nữa, thì kết quả vẫn không hề thay đổi.
Lại nói chuyện anh chồng, từ khi vợ bị quan quân bắt đi thì không còn thiết làm ăn gì nữa. Khi nghe tin loan báo ai làm cho người đẹp trong cung nói cười được thì vua sẽ ban thưởng. Anh biết là vợ mình đang ở cung vua, bèn quyết vào kinh tìm vợ.
Trước khi đi, anh nhổ mấy củ hành ở cạnh giếng buộc làm một gánh, quẩy theo. Đến kinh đô, anh quảy gánh của mình đi lại trước cửa hoàng cung, rao to lên những câu:
Dọc bằng đòn gánh,
Củ bằng bình vôi,
Ai mua hành tôi,
Thì thương tôi với!
Tiếng rao của anh vọng vào cung mỗi lúc mỗi lớn. Nét mặt của vợ anh tự nhiên cũng mỗi lúc mỗi tươi. Cuối cùng, nàng quay lại bảo thị nữ:
– Hãy gọi người bán hành vào cho ta!
Khi nhìn thấy mặt chồng, vợ anh cười lên một tiếng. Thấy người đàn bà lần đầu tiên cười nói, vua sung sướng như mở cờ trong bụng. Lại thấy những cây hành to lớn lạ thường thì lấy làm kinh ngạc quá đỗi. Vua ngỡ là nhờ những cây hành kỳ lạ này mà người đẹp nói cười. Vua liền nảy ra ý nghĩ, muốn tự mình cải trang gánh hành để làm vui lòng người đẹp. Vua bảo anh chồng:
– Hãy đặt gánh hành lại đó và cởi áo ra mau!
Vui cởi áo long bào ra và mặc áo của anh vào. Vua còn bắt anh bày cho mình học thuộc câu rao, rồi quẩy gánh hành qua lại trước mặt người đàn bà, cất tiếng rao mới học được:
Dọc bằng đòn gánh,
Củ bằng bình vôi,
Ai mua hành tôi,
Thì thương tôi với!
Thấy vậy, vợ anh hàng hành cười ngặt nghẽo. Vua thích thú lại càng làm nhiều hơn. Nhưng đột nhiên, người đàn bà bảo thị nữ thả đàn chó ra. Chó thấy vua ngỡ là người lạ, liền nhảy xổ tới cắn chết.
Người đàn bà vội giục chồng:
– Mình hãy mau mau mặc long bào lại, rồi trèo lên ngai vàng đi!
Anh chồng mặc xong long bào và lật đật trèo lên ngai vàng, đúng lúc ấy trăm quan và cung nữ vào triều rập đầu bái mạng. Kể từ đó, anh trở thành vua và ở bên người vợ xinh đẹp của mình đến trọn đời.
Truyện cổ tích Lọ nước thần
– TheGioiCoTich.Vn